Ung thư vú là căn bệnh gây t.ử v.ong cao nhất ở nữ giới nên việc phát hiện các triệu chứng của bệnh và điều trị kịp thời là rất quan trọng.
Thế nhưng, việc duy trì một lối sống tích cực, đề phòng bệnh hơn chữa bệnh mới là điều phụ nữ thời đại 4.0 cần lưu tâm nhiều hơn.
Duy trì cân nặng hợp lý
Bị thừa cân hoặc béo phì đều có nguy cơ mắc ung thư vú tới 40%, đặc biệt là với phụ nữ thời kỳ mãn kinh. Lượng estrogen tăng cao là một trong số nguyên nhân chủ yếu gây ra căn bệnh này, và cơ thể càng to béo bao nhiêu thì lượng estrogen bạn tích trong cơ thể mình càng nhiều bấy nhiêu. Tin tốt là, không bao giờ là quá muộn để giữ cho trọng lượng cơ thể trong tầm kiểm soát. Nếu bạn bị thừa cân, việc giảm cân có thể sẽ giúp bạn giảm thiểu rủi ro.
Rèn luyện thể chất
Một lối sống năng động sẽ góp phần giúp phái đẹp giữ cân nặng ở mức ổn định, từ đó giúp ngăn chặn ung thư vú. Một nghiên cứu chỉ ra rằng cứ 2 tiếng đi bộ nhanh mỗi tuần sẽ giảm thiểu nguy cơ mắc căn bệnh nguy hiểm này tới 18%. Vì những lợi ích cho sức khỏe, các chuyên gia khuyên rằng bạn cần sắp xếp 30 phút mỗi ngày để tập thể dục ở cường độ vừa phải.
Chế độ ăn dinh dưỡng
Mặc dù chưa có bằng chứng trực tiếp nói rằng chế độ ăn có thể giảm nguy cơ ung thư vú, nhưng ăn uống cân bằng với chất béo động vật thấp và tăng cường ngũ cốc nguyên hạt, hoa quả và rau có thể giúp bạn duy trì cân nặng ổn định. Đây chính là một nhân tố quan trọng trong việc phòng tránh ung thư vú.
Hạn chế thức uống có cồn
Lượng cồn tiêu thụ có một mối quan hệ với sự tăng lên của nguy cơ mắc ung thư vú. Nếu bạn uống 2 hoặc 5 cốc mỗi ngày, rủi ro bị mắc ung thư vú sẽ nhảy vọt lên khoảng 1.5 lần so với người không uống đồ uống có cồn.
Có con trước năm 30 t.uổi nếu được
Phụ nữ từng mang thai hoặc có con đầu lòng trước năm 30 t.uổi sẽ có nguy cơ mắc ung thư vú thấp hơn so với những phụ n.ữ s.inh đẻ sau t.uổi 30. Phụ nữ mang thai nhiều lần cũng giảm thiểu nguy cơ này. Mang thai làm giảm số lần chu kỳ k.inh n.guyệt trong cuộc đời của một người phụ nữ, điều khiến cho các chuyên gia tin rằng có tác dụng bảo vệ sức khỏe tốt hơn cho họ.
Cho con bú
Các bà mẹ được khuyến cáo rằng cho con bú có thể giúp chống lại ung thư vú. Bạn càng cho con bú nhiều, khả năng chống lại ung thư vú càng cao hơn. Nhiều chuyên gia cho rằng lượng estrogen sẽ thấp hơn trong suốt thời kỳ cho con bú, điều này làm giảm thiểu rủi ro mắc căn bệnh ung thư vú.
Tránh xa khói t.huốc l.á
Một vài nghiên cứu đã tìm thấy tế bào ung thư vú trong cơ thể những người phụ nữ bắt đầu hút thuốc từ khi còn trẻ hoặc hít phải khói thuốc của người khác. Trong khi sự liên quan này vẫn chưa rõ ràng, phần lớn các chuyên gia hiện nay vẫn đồng ý với quan điểm: thói quen sống sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe.
Tránh sử dụng hooc-môn
Sử dụng hooc-môn thay thế trị liệu (HRT), cụ thể là sự kết hợp estrogen và progesterone có mối liên quan trong việc làm tăng nguy cơ ung thư vú. May mắn là điều này sẽ trở nên bình thường nếu một người phụ nữ không sử dụng hooc-môn trị liệu trong vòng 5 năm hoặc lâu hơn. Nếu bạn đang sử dụng hooc-môn để đối phó với các triệu chứng thời kỳ t.iền mãn kinh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ về các biện pháp trị liệu khác.
Cân nhắc về việc sử dụng thuốc để phòng tránh
Nếu bạn là người có nguy cơ mắc ung thư vú cao do lịch sử gia đình, gen di truyền hoặc các nhân tố khác tác động, thì bạn nên sử dụng các loại thuốc như tamoxifen hoặc raloxifene. Hãy nói chuyện với bác sĩ về những ưu/khuyết điểm của các loại thuốc chống lại sự phát triển của estrogen và cân nhắc về hiệu quả của chúng đối với sức khỏe của bạn.
Kiểm tra sức khỏe thường xuyên
Không phải lúc nào cũng khả thi nhưng chụp quang tuyến vú định kỳ có thể dò tìm ra căn bệnh ở giai đoạn sớm nhất, ngăn chặn nó lây lan, di căn và trở thành mối đe dọa đối với tính mạng của chị em.
Theo Đẹp Online
Ung thư vú: Đừng để quá muộn!
Ung thư vú không phải là một đề tài mới, nhưng lại chưa bao giờ cũ vì căn bệnh thường gặp nhất trong các bệnh ung thư này vẫn luôn rình rập những người phụ nữ và người thân của họ.
Đừng để mọi chuyện trở nên muộn màng. Trang bị cho mình những kiến thức và biết tự bảo vệ mình chính là cách bạn mang lại hạnh phúc cho chồng con và người thân. Tỷ lệ mắc ung thư vú trong những năm gần đây có xu hướng tăng lên tại nhiều nước, đặc biệt ở một số nước đang phát triển do thay đổi theo lối sống phương Tây, tuy nhiên tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư vú lại đang giảm đi nhờ các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm.
Đối với bệnh ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng, việc nhận biết được các yếu tố nguy cơ và phòng tránh chúng có thể làm giảm được 1/3 nguy cơ mắc bệnh. Các yếu tố nguy cơ bệnh ung thư vú vẫn đang được nghiên cứu, tuy nhiên một số yếu tố được khẳng định có liên quan đến bệnh ung thư vú bao gồm:
1. Yếu tố gia đình
Được xếp vào nhóm nguy cơ cao gồm những người có t.iền sử gia đình bị ung thư vú như: mẹ, chị em gái. Phụ nữ có mẹ, chị em gái bị ung thư vú có nguy cơ mắc ung thư vú cao gấp 2 – 3 lần so với phụ nữ có mẹ, chị em gái không bị ung thư vú. Những phụ nữ ung thư vú có liên quan đến t.iền sử gia đình thường có xu hướng trẻ hơn và có tỷ lệ ung thư vú hai bên cao hơn.
2. Gen
Biến đổi (hay đột biến) một số gen có thể làm tế bào chuyển thành ác tính. Năm 1994, người ta tìm thấy sự liên quan giữa đột biến gen ức chế u BRCA-1 và BRCA-2 nằm trên nhiễm sắc thể 17 và 13 với ung thư vú, ung thư buồng trứng và một số loại ung thư khác.
Do nằm trên nhiễm sắc thể thường, các gen này có thể di truyền từ bố hoặc mẹ (50% có khả năng nhận từ bố, 50% có khả năng nhận từ mẹ). Những phụ nữ mang các gen này có nguy cơ cao bị ung thư vú.
Khoảng 5% các trường hợp ung thư vú có đột biến gen BRCA-1 và thường bị bệnh khi còn trẻ. Ngoài ra, gen này cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư t.iền liệt tuyến và đại tràng.
Đột biến gen BRCA-2 cũng có nguy cơ gây ung thư vú ở nữ tương đương với nguy cơ đột biến gen BRCA-1. Ung thư buồng trứng cũng có thể xảy ra với đột biến gen này nhưng nguy cơ thấp hơn so với gen BRCA-1.
Đột biến gen p53 và một số gen khác cũng liên quan với nguy cơ ung thư vú. Những hội chứng do các rối loạn về di truyền như hội chứng Li-Fraumeni, hội chứng Cowden, hội chứng Muir, giãn mạch thất điều cơ cũng có thể làm xuất hiện ung thư vú. Những nghiên cứu gần đây cho thấy có khoảng 10% ung thư vú do di truyền.
3. T.uổi tác
T.uổi càng cao, nguy cơ mắc ung thư vú càng tăng. Số bệnh nhân bắt đầu bị bệnh lúc trên 50 t.uổi chiếm trên 70% tổng số bệnh nhân ung thư vú. Phụ nữ dưới 30 t.uổi rất hiếm khi mắc ung thư vú.
4. Các yếu tố nội tiết
Ung thư vú là một trong số các ung thư có liên quan mật thiết với nội tiết nữ, cụ thể là estrogen được sản xuất chủ yếu tại buồng trứng. Một trong những tác dụng của estrogen là làm tăng sinh các tế bào biểu mô tuyến vú, cần thiết cho quá trình sinh sản, nuôi con.
Tuy nhiên, nếu tế bào tuyến vú tiếp xúc với estrogen quá nhiều, các tế bào tăng sinh mạnh kết hợp với các đột biến có thể xảy ra trong quá trình phân chia tế bào sẽ có khả năng phát triển thành ung thư vú. Do đó những yếu tố làm tăng thời gian tiếp xúc của tuyến vú với estrogen đều có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Có thể liệt kê một số yếu tố sau:
– T.uổi bắt đầu có kinh sớm làm tế bào tuyến vú sớm tiếp xúc estrogen. Những người có kinh sớm cũng có nồng độ estrogen cao hơn những người có kinh muộn.
– T.uổi mãn kinh muộn hoặc đã mãn kinh nhưng dùng nội tiết thay thế có chứa estrogen cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nguy cơ ung thư vú có thể giảm một nửa ở phụ nữ mãn kinh trước 45 t.uổi so với mãn kinh sau 55 t.uổi. Những phụ nữ chưa mãn kinh nhưng phải cắt bỏ buồng trứng vì một lý do nào đó cũng giảm nguy cơ ung thư vú.
– Mang thai và ung thư vú cũng có mối liên quan. Những phụ nữ không sinh con có nguy cơ bị ung thư vú cao gấp 1,4 lần phụ n.ữ s.inh con. Nếu phụ nữ mang thai lần đầu sau 30 t.uổi có nguy cơ bị bệnh gấp 2 đến 5 lần so với phụ nữ mang thai đủ thời gian trước 18 t.uổi.
– Không cho con bú cũng là một yếu tố nguy cơ. Nguy cơ ung thư vú sẽ giảm 4% cho mỗi năm mà người phụ nữ cho con bú.
– T.iền sử bị các bệnh tại vú: Viêm vú trong khi sinh đẻ và một số bệnh vú lành tính như quá sản không điển hình (atypical hyperplasia) cũng là các yếu tố tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
– Ít vận động, béo phì: Những phụ nữ béo, đặc biệt khi đã mãn kinh liên quan với nguy cơ ung thư vú tăng. Người ta cho rằng estrogen được sinh ra trong mô mỡ đã làm tăng nguy cơ ung thư vú ở những người này. Nguy cơ ung thư vú tăng khoảng 9% ở người ít vận động.
– Tiếp xúc với tia phóng xạ: Phụ nữ tiếp xúc với tia phóng xạ khi còn trẻ như phải điều trị bằng tia xạ tại vùng ngực vì các bệnh ác tính khác (như u lymphô ác tính không Hodgkin hoặc Hodgkin) có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn những phụ nữ khác gấp 12 lần.
Theo ghi chép của Tiến sĩ Trần Văn Thuấn – Phó GĐ BV K, Trưởng Khoa Nội II BV K (2008)
Theo Đẹp Online